Sự hồi sinh của King Seiko
Viết bởi Quốc Doanh Đồng Hồ vào

Đúng năm 1975, hệ quả của cuộc khủng hoảng thạch anh càn quét là sự chấm dứt sản xuất đồng hồ King Seiko. Sau thời gian “trị vì” ngắn ngủi nhưng lịch sử King Seiko lại rất huy hoàng, vô tình bị vùi lấp đáng tiếc. Chỉ cho đến khi 2021 mới thực sự tái sinh.

Lịch sử đồng hồ King Seiko 1961 – 1975

Cho đến ngày nay, khi mà cơn bão mang tên “thạch anh” suýt nhấn chìm ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sỹ đã đi qua, vô số dòng cơ khí đã được hồi sinh kể cả đối thủ một thời Grand Seiko nhưng King Seiko cũng chỉ là tàn tích với bản phát hành kỷ niệm vào năm 2000.

Thất bại bởi chính các “đồng hương” mình là Grand Seiko và đồng hồ thạch anh này khiến vị vua của độ chính xác một thời từ Nhật Bản những tưởng đã phải trở thành dĩ vãng. May mắn thay, lịch sử King Seiko đã tiếp nối và trở lại với một tầm nhìn mới vào 2021.

1. Lịch sử và hoàn cảnh ra đời King Seiko

1.1 Bối cảnh lúc bấy giờ

Công ty Seiko bắt đầu vào năm 1881 với cái tên K.Hattori tại Tokyo chuyên sửa chữa và bán đồng hồ nhập khẩu. Kể từ ngày đó, họ dần lớn mạnh rồi có khả năng tự sản xuất đồng hồ thoát khỏi tình trạng phụ thuộc vào phương Tây và xuất khẩu ra nước ngoài trong thế chiến thứ I.

Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, việc sản xuất dần dần đa dạng khiến Seiko thành lập thêm công ty con Daini Seikosha vào năm 1937, chịu trách nhiệm sản xuất đồng hồ. Công ty này lại tiếp tục thành lập nhà máy mới của mình tại Suwa năm 1943 dưới sự hợp tác với Daiwa Kogyo.

Tuy nhiên, sự bùng nổ của Thế chiến II khiến nhà máy Suwa bị phá hủy, sang năm 1959, sau khi được xây dựng lại, nó đã hợp nhất với Daiwa Kogyo để trở thành Suwa Seikosha Co., Ltd. không còn phụ thuộc Daini Seikosha và trở thành công ty độc lập trong Seiko.

Ảnh nhà máy Daini Seikosha

1.2 Sự ra đời của King Seiko và nội chiến với Grand Seiko

Bằng cách tách hai nhà máy, Seiko hy vọng thúc đẩy cạnh tranh trong nội bộ công ty và đổi mới. Cùng sản xuất sản phẩm mang thương hiệu Seiko nhưng Suwa Seikosha đã phân biệt đồng hồ của họ với Daini Seikosha bằng một biểu tượng “lốc xoáy” cách điệu, về phần Daini Seikosha, biểu tượng là “tia chớp”.

“Dòng đồng hồ King Seiko – KS (1961) là thương hiệu con chuyên sản phẩm máy cơ chất lượng cao hàng đầu của hãng Seiko được tạo ra bởi Daini Seikosha. Cũng như đối thủ Grand Seiko từ Suwa Seikosha, dòng đồng hồ này tuân thủ “Grammar of Design” với độ chính xác tương đương hoặc cao hơn Chronometer.”

Điều kỳ quặc là dù có quy mô to lớn nhưng công ty đồng hồ này lại không hề có bộ phận thiết kế chuyên dụng. Điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều sản phẩm rất “vớ vẩn”, trùng lặp, không hấp dẫn được làm ra, làm giảm sức cạnh tranh với các nhà sản xuất phương Tây.

Đến tận năm 1956, trước khi trở thành Suwa Seikosha thì nhà máy Suwa mới thành lập một bộ phận thiết kế chịu trách nhiệm thiết kế mặt số đồng hồ còn việc thiết kế vỏ ngoài vẫn do bộ phận sản xuất vỏ đảm nhận.

Sang năm 1958 thì tới lượt công ty Daini Seiko bắt đầu tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp từ đại học và rồi năm 1959 họ đã tuyển dụng Taro Tanaka vào K.Hattori & Co. cho bộ phận thiết kế.

1.3 Định hướng King Seiko thuần nội địa và xa xỉ thứ hai của hãng

Tại thời điểm 1960 đến 1975, không chỉ có Grand Seiko và Credor là hai thương hiệu con tiêu biểu cho ra đời các mẫu cao cấp mà còn có King Seiko được hãng định vị dành cho phân khúc thị trường bình dân hơn lúc bấy giờ.

Bởi lẽ, Grand Seiko được kiểm tra nghiêm ngặt chuyển động nội bộ theo tiêu chuẩn Thụy Sỹ còn Daini lại không có hệ thống kiểm tra như vậy đối với King Seiko.

Tuy nhiên, sau đó ban lãnh đạo đã nhận ra được việc thị trường đang tràn ngập biến thể không đúng với với các mẫu đang bán, gây hại cho công ty. Kết quả là cuối những năm 60, cả hai nhà máy của hãng đều sản xuất cả hai dòng là King Seiko và Grand Seiko nên vị thế của Seiko King cũng được khẳng định vững chắc hơn.

Chính vì vậy, đồng hồ King Seiko thời bấy giờ được định vị là sản phẩm thuần nội địa và xa xỉ thứ hai của hãng.

Cả hai dòng King Seiko và Grand Seiko đều kế thừa Cronos, dòng sản phẩm chủ đạo của Seiko sản xuất từ ​​năm 1958 đến năm 1964. Thiết kế rất thanh lịch, sang trọng nhưng không đắt tiền. Thay thế Seiko Cronos, King Seiko và Grand Seiko đã mở màn cho phân khúc cao cấp mà trước nay Seiko vẫn vắng bóng.

Ảnh đồng hồ King Seiko KSK SJE083 năm 1965

2. Các sản phẩm đồng hồ cao cấp Seiko King từ trước năm 1975

Ngay sau khi Taro Tanaka bắt tay xây dựng mảng thiết kế, hai công ty con của Seiko là Daini Seikosha và Suwa Seikosha được đề cập ở trên cũng theo sau, tiến hành vào nghiên cứu sản xuất đồng hồ theo quy chuẩn mới.

Vào năm 1960, Suwa Seikosha trẻ trung nhanh nhạy hơn đã cho ra mắt đồng hồ cao cấp Grand Seiko Ref. 3180 kim Dauphine, thương hiệu Grand Seiko được viết theo kiểu cách điệu và cuối cùng là độ chính xác chuẩn “Chronometer” thử nghiệm nội bộ (-3/12 giây mỗi ngày).

Lúc này, Daini Seikosha mới kịp phản ứng lại và cho ra đời sản phẩm cạnh tranh với tên gọi King Seiko vào năm 1964 (được phát triển từ 1961). Đây cũng là một sản phẩm đồng hồ đeo tay cao cấp.

2.1 Chiếc đồng hồ King Seiko đầu tiên ra mắt công chúng năm 1964

Chiếc đồng hồ King Seiko đầu tiên được trang bị máy lên dây thủ công 25 chân kính, tuy nhiên King Seiko không sử dụng “Chronometer” vì nó không được kiểm tra nội bộ bởi Daini.

King Seiko có hai bản bằng thép và mạ vàng như Grand Seiko nhưng việc thiếu “Chronometer” đã đặt nền móng cho việc nó được coi là “kém hơn” Grand Seiko.

2.2 44KS ra đời vào 1964 đến 1968

Grand Seiko tiếp tục tung ra 57GS với vỏ tuân thủ theo quy tắc thiết kế Tanaka khiến Daini Seikosha lần nữa đáp trả trong cùng năm 1964 bằng cách phát hành mẫu King Seiko 44KS, với độ chính xác Chronometer (sau này gọi là 4420B/44 Grand Seiko do “phản đối Chronometer”), tuân theo Grammar of Design.

Tương tự 57GS, 44KS cũng trang bị một huy chương bằng vàng chữ nổi thương hiệu Seiko, KS và biểu tượng tia chớp của King Seiko trong khi đối thủ là thương hiệu Seiko, GS và biểu tượng lốc xoáy của Grand Seiko.

Chiếc đồng hồ King Seiko 44KS, sản phẩm chính thức đầu tiên dòng KS tuân theo Grammar of Design 

King Seiko 44KS là một trong những điểm sáng nổi bật của dòng được các nhà sưu tập đánh giá có chất lượng ngang với Grand Seiko. Nó có Screw Down Caseback đảm bảo chịu nước 50 mét và vỏ làm bằng thép không gỉ.

Có một khác biệt hấp dẫn của một số mẫu King Seiko so với Grand Seiko đó chính là “external adjusting screw”, ốc điều chỉnh nhanh/chậm dao động ngay ngoài vỏ để người dùng có thể tự tinh chỉnh độ chính xác cực nhanh không cần đến dịch vụ chuyên nghiệp

2.3 45KS từ 1968 đến 1974

45KS là chiếc đồng hồ xa xỉ do Daini Seikosha sản xuất và cũng là dòng cuối cùng của King Seiko được chế tạo thủ công và có tần số 36.000 bph.

Từ trái qua: nắp lưng có huy chương của đồng hồ King Seiko – KS có tia chớp của Daini và Grand Seiko – GS có lốc xoáy của Suwa. (Cũng xin lưu ý là Suwa Seiko cũng sản xuất cả King Seiko, như trong ảnh thứ 3 từ trái qua KS với lốc xoáy)

2.4 56KS từ 1968 đến 1975 (dòng Automatic thay cho Hand Winding)

56KS là dòng duy nhất của King Seiko do Suwa Seikosha sản xuất và được ra mắt ngay khi đồng hồ thạch anh đầu tiên của Seiko trình làng.

Bao gồm các danh mục sản phẩm: 5626, 5625, 5621.

2.5 52KS từ 1971 đến 1975

Là dòng cuối cùng của King Seiko được nhà máy Daini phát triển giúp với độ chính xác rất tốt “VFA”. Chúng trở nên đặc biệt và trở thành đồng hồ cơ Hi beat chính xác nhất từng sản xuất.

Bao gồm các danh mục sản phẩm 5256, 5246, 5245.

2.6 VANAC từ 1972 đến 1974

KS Vanac là một nhánh được sản xuất bởi cả Suwa và Daini và hãng cũng không đề cập tại sao lại có cái tên này. Suwa đóng góp bộ máy KS 5626 tiêu chuẩn và Daini với 5246 và 5256 (cũng có ở trong một số bản King Seiko thông thường) nhưng phổ biến nhất ở Vanac.

King Seiko Vanac được sản xuất từ 1972 đến 1974 với mặt số nhiều màu sắc, kính nhiều mặt và góc cạnh.

Tờ rơi Vanac năm 1972 quảng bá với 10 mẫu đầu tiên được công bố

3. Từ thất bại đến chiến thắng khi Seiko vấp phản đối từ Thụy Sỹ khi sử dụng “Chronometer”

Hiệp hội Chronometer chính thức của Châu Âu (European Chronometer Official Association) cho rằng một chiếc máy đo thời gian (đồng hồ chính xác cao – chronometer) phải được kiểm tra độc lập để được trao danh hiệu đó. Do Seiko không được kiểm tra độc lập vì thế chúng không thể là máy đo thời gian.

ECOA đã viết một bức thư nghiêm khắc để yêu cầu Seiko ngừng sử dụng “Chronometer” cho cả hai dòng Grand và King Seiko. Dưới sức ép đó, Seiko bắt buộc và ngừng sử dụng “Chronometer” trên đồng hồ của mình.

“Để đáp điều này, Hiệp hội Cấp phép Chronometer Nhật Bản (Japanese Chronometer Authorization Association) bắt đầu hoạt động vào năm 1968 với tư cách là một nhóm độc lập để kiểm tra đồng hồ theo các tiêu chuẩn của chronometer. Tuy vậy, Hiệp hội này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn do sự xuất hiện của đồng hồ thạch anh và đóng cửa vào năm 1983.

Lúc này, với đồng hồ thạch anh chính xác hơn đồng hồ cơ nhiều, tiêu chuẩn Chronometer đã không còn cần thiết, ít nhất là với Nhật Bản. Tuy vậy, trong thời gian tồn tại, tổ chức Chronometer của Nhật Bản JCAA đã cấp phép cho các dòng máy cao cấp 45, 56, 52 của King Seiko chính thức.”

Một trong những bộ máy của King Seiko được cấp phép Chronometer

Sau những phản đối từ Thụy Sỹ, cũng trong năm 1964, Dani và Suwa Seikosha đã tham gia vào các cuộc thử nghiệm tại Astronomical Observatory Chronometer Concours ở Neuchatel. Nghiên cứu này được thực hiện nghiêm ngặt hơn nhiều so với các bài kiểm tra chronometer thường kỳ.

Muốn vượt qua, độ lệch trung bình hàng ngày phải trong vòng +/- 0,75 giây, sự thay đổi độ chính xác bởi nhiệt độ trong khoảng +/- 0,20 giây mỗi ngày và thời gian thử nghiệm là 45 ngày. Đó là một thảm hoạ. Suwa Seiko hạng 144 và Daini Seiko hạng 153.

Thất bại thảm hại nhưng Seiko vẫn bền chí, họ quay lại các cuộc thử nghiệm của Neuchatel Observatory vào năm 1967 với thay đổi rất ấn tượng. Daini đạt hạng 4, 5, 7 và 8 còn Suwa đạt hạng 12. Đáng tiếc là năm kế tiếp, cuộc thử nghiệm này đã bị đình chỉ.

Thời gian sau đó, cuối những năm 60, thế hệ sau của King Seiko 44KS là loạt đồng hồ Hi-Beat – King Seiko 45 (còn gọi là 45GS), được sản xuất với hàng loạt kiểu vỏ, thiết kế và tiêu chuẩn độ chính xác, từ chuẩn nội bộ KS cho đến Superior Chronometer (-6/9 giây mỗi ngày), 36.000 vph.

Thật ra thì nó vẫn chậm chân hơn Grand Seiko 61GS từ Suwa, sản phẩm đồng hồ cao cấp đầu tiên của Seiko chạy ở tần số 36000 vph. Bởi thế, không có gì lạ khi 61GS được đánh giá là một trong những chiếc Grand Seiko hấp dẫn nhất đối với các nhà sưu tập ngày nay.

Cuối cùng, trước khi cuộc khủng hoảng thạch anh thay đổi mọi thứ, chiếc KS 5246 đã được phát hành, cũng là Hi-Beat nhưng tần số dao động chỉ là 28.800 vph, ít hơn Hi-Beat thực sự 36.000vph.

Trong những năm 1970 về sau, các quy tắc thiết kế nghiêm ngặt của Taro Tanaka bị suy yếu và kết quả của nó là Seiko phát hành một số Grand Và King Seiko trong hình bầu dục, hình bầu, hình vuông (như ở Vanac) ngày càng mất đi bản sắc của “Grammar of Design” lẫy lừng một thời.

4. Kết thúc, cả King và Grand Seiko đều gục ngã trước thạch anh

Seiko không phải là thương hiệu duy nhất nghiên cứu phát triển máy thạch anh vào những năm 1960 nhưng họ là một trong số người đầu tiên công bố nó. Vào ngày Giáng sinh năm 1969, Seiko phát hành Astron và thay đổi thế giới của đồng hồ đeo tay mãi mãi.

Mặc dù Seiko đã thu được thành công từ cuộc cách mạng thạch anh của mình nhưng cũng đồng thời tự tay kết liễu cả hai dòng cao cấp nhất lúc bấy giờ của hãng, King Seiko và Grand Seiko máy cơ.

Sau một thời gian lay lắt sản xuất đồng hồ thạch anh dưới thương hiệu King Seiko và Grand Seiko, một quyết định từ tổng công ty Seiko vào năm 1975 đã chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất tất cả đồng hồ thương hiệu King Seiko vốn không mạnh bằng Grand Seiko để tập trung cho đồng hồ thạch anh Grand Seiko.

Ngay cả khi Grand Seiko cơ khí được hồi sinh vào năm 1998 (Grand Seiko 9SGS) bởi Seiko Instruments (trước đây là Daini Seikosha) chứ không phải Seiko Epson (trước đây là Suwa Seikosha) “tuyệt đối trung thành” chỉ với Grammar of Design, dòng đồng hồ King Seiko vẫn chỉ được tái phát hành trong thời gian ngắn theo hình thức bộ sưu tập kỷ niệm vào năm 2000. (Có vẻ như đây là điều chứng minh cho việc năm xưa King Seiko đã thua cuộc trước Grand Seiko rõ ràng nhất dù bao nhiêu năm trôi qua).

Hình trên là mẫu King Seiko Ref. SCN001 đã được thiết kế dựa trên Ref. 5626-711X với bộ máy 4S15 lấy nền tảng từ máy 52 Daini (máy 5246). King Seiko Ref. SCN001 là chiếc đồng hồ King Seiko cuối cùng. Đây là dấu chấm hết cho dòng sản phẩm từng một thời là cao cấp nhất nhì từ Seiko.

Nếu được sống ở thời đại của những năm 60, 70 và 80, chắc chắn bạn sẽ chứng kiến được những cuộc chiến, chạy đua khốc liệt bậc nhất thế giới đồng hồ kể từ khi chúng ra đời: cuộc chiến đồng hồ đeo tay, Automatic, chạy đua nâng tần số dao động và khủng hoảng thạch anh.

King Seiko đã thực sự chết vào năm 1975, khép lại tất cả thăng trầm mã nó đã trải qua cũng như chấm dứt cuộc nội chiến đồng hồ sang trọng Seiko với tư cách là kẻ thua cuộc để nhường chỗ cho dòng Grand Seiko máy thạch anh. Thời cuộc này cũng khiến Grand Seiko máy cơ bị khai tử sau đó một năm.

Tiêu chuẩn thiết kế của đồng hồ King Seiko

Nhận ra rằng Seiko đã tụt hậu trong thiết kế, kể từ khi gia nhập, nhà thiết kế trẻ Taro Tanaka đã giúp công ty bước sang chương mới về nghệ thuật trong thiết kế đồng hồ. Nổi bật hơn hết đó là ông đã tạo ra quy tắc thiết kế “Grammar of Design”:

1. Tất cả bề mặt và góc nhìn từ vỏ, mặt số, bàn tay và vạch số phải phẳng và hoàn hảo về mặt hình học để phản chiếu ánh sáng tốt nhất
2. Viền Bezel phải là hai đường cong hai chiều đơn giản
3. Không chấp nhận có bất cứ bóp méo thị giác nào từ mọi góc độ và tất cả bề mặt vỏ phải được đánh bóng gương
4. Tất cả các bộ vỏ phải là duy nhất cho mỗi mẫu mã, không được có thiết kế chung chung.

Chương trình thiết kế mới của Tanaka đã dẫn tới việc kiểm soát sản xuất nghiêm ngặt hơn về sự hoàn thiện trên đồng hồ của Seiko và ông tin tưởng đó điều cơ bản để các sản phẩm Seiko có chất lượng tương ứng với những đối thủ Thụy Sỹ.

Trong một cuốn sách của Seiko, “A Journey in Time”, Tanaka đã nhớ lại những nỗ lực đầu tiên để mô tả công việc của mình cho đồng nghiệp bởi vào thời điểm đó, một nhà thiết kế đồng hồ không tồn tại. Chỉ vài năm sau, quy tắc của Tanaka đã ảnh hưởng đến thập kỷ tiếp theo của thiết kế Seiko, đặc biệt là dòng Grand và King Seiko.

2021 – Sự hồi sinh của King Seiko

Vào năm 2017, sau một thời gian dài hoạt động mạnh mẽ đầy thành công với tư cách là thương hiệu con, cuối cùng Grand Seiko đã được Seiko tuyên bố trở thành thương hiệu độc lập còn King Seiko vẫn tiếp tục bị chôn vùi.

Nhưng đây chỉ là một giấc ngủ đông, hãng đã thông báo về sự “tái sinh” bộ sưu tập King Seiko mới sau hơn nửa thập kỷ.

Thực tế, tháng 8 năm 2000 Seiko đã ra mắt phiên bản giới hạn 2000 chiếc King Seiko SCVN001. Sử dụng bộ máy 4S15 tái bản dựa trên bộ máy 52KS.

Năm 2021 nhân dịp kỷ niệm 140 năm của Seiko và 60 năm ra mắt King Seiko, thương hiệu Nhật Bản này đã ra mắt dòng King Seiko thứ hai gọi là KSK với mẫu SJE083 giới hạn 3000 chiếc. 

Dáng vỏ sắc nét và góc cạnh đánh bóng gương Zaratsu bắt sáng từ mọi góc độ nổi bật, khác với đường viền bo tròn nhẹ nhàng của nhà sáng tạo đầu tiên của King Seiko. Bên trong sử dụng bộ máy 6L35.

Sau đợt “chạy thử” này, cuối cùng Seiko đã quyết định dốc toàn lực cho BST King Seiko trở lại vào 2022. Vẫn lấy cảm hứng từ mẫu 1965, gồm 5 mẫu mới được bán lẻ trên toàn thế giới: trắng, xám nhạt, xám than, nâu và đỏ.

Tuy không xuất hiện lâu nhưng lịch sử King Seiko thực khiến ai cũng bất ngờ về. Cũng chính điều này mà việc săn tìm đồng hồ King Seiko cổ cũng sôi nổi không kém. Bất cứ ai cũng mong muốn sở hữu huyền thoại chính xác và cầm trên tay chiếc đồng hồ đặt lên bàn cân cạnh tranh với Grand Seiko. 

 


Bài Viết Mới